Cập nhật nội dung chi tiết về Giảm Phát: Tốt Hay Xấu mới nhất trên website Duandautueb5.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Giảm phát: tốt hay xấu
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Bài 35:
Giảm phát: tốt hay xấu
Đến tháng 8/2003, chỉ số CPI của Việt Nam đã giảm liên tục trong 4 tháng. Mọi người đều nói “giảm phát”. Thực ra khái niệm giảm phát đã xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam từ năm 2000. Về trực giác, người tiêu dùng thích giảm phát nhưng người sản xuất lại chẳng ưa gì. Thực chất thì giảm phát là tốt hay xấu ?
Giảm phát tốt xảy ra khi môi trường kinh doanh cởi mở hơn, các mức giá bị các nhà độc quyền đẩy lên cao nay phải giảm dưới áp lực cạnh tranh. Một tình huống tốt khác là trong thị trường tự do, những người sản xuất với năng suất cao hơn sẽ vươn lên, giá thành sản phẩm sẽ giảm xuống, giá hàng giảm làm người tiêu dùng mua nhiều hơn, và kết quả là giá thành mỗi đơn vị sản phẩm càng giảm.
Giảm phát không tốt xảy ra khi giá giảm nhưng số hàng bán không tăng. Các công ty phải giảm quy mô sản xuất và thải bớt nhân công. Trước nguy cơ mất việc, mọi người sẽ tiết kiệm nhiều hơn và chi tiêu ít hơn. Kết quả là giảm phát trở nên trầm trọng.
Dạng giảm phát tồi tệ hơn khi các doanh nghiệp kém hiệu quả được trợ giá để tiếp tục hoạt động. Để cạnh tranh với các doanh nghiệp này, các công ty khỏe mạnh phải hạ giá bán và chẳng mấy chốc cũng trở nên ốm yếu.
Giảm phát là tồi tệ nhất khi quá nhiều vốn và vốn vay ào ạt đổ vào một cách lạc quan, làm cho cung vượt xa cầu. Hàng không bán được nhưng nợ vẫn phải trả, cả các công ty tốt cũng có nguy cơ phá sản.
Việt Nam ở đâu trong những tình huống tốt và xấu nêu trên? Chỉ số CPI của ta dựa nhiều vào giá lương thực và nông sản. Những năm gần đây, giá nông sản trên thế giới giảm do dư cung, ví dụ như gạo, cà phê, tiêu v.v… Nông dân ở Indonesia, Braxin và Việt Nam chẳng thể làm gì ngoài việc chờ xem ai sẽ phải chặt bỏ cà phê trước. Họ không trách nhau, nhưng chê các chính phủ đã chẳng giúp họ những thông tin và dự báo chính xác
English:
Deflation: good or bad
Until August 2003, the CPI of Vietnam has been decreased for four consecutive months. Everyone says “deflation”. In fact, the concept of deflation appeared in Vietnam for the first time in 2000. Intuitionally, consumers love deflation but producers hate it. Overall, is it good or bad?
Good deflation happens when the business environment becomes more open, high prices set by monopolists are reduced under competition. Another good scenario occurs due to free market. In that environment, producers with better productivity will thrive, cost of production becomes lower, price is down, consumers purchase more, and in turn, the unit cost of production goes further down.
Bad deflation happens when prices are down but unit sales are not up. Firms have to reduce the production scale and lay off workers. Facing higher job uncertainty, consumers will save more and spend less. Then deflation can become severer.
The worse deflation may occur when inefficient firms are subsidized to stay in business. In order to compete with these firms, healthy ones will have to lower their prices and will soon get sick, too.
The worst deflation occurs when too much loans and capital optimistically rush in, causing supply move far ahead of demand. Products cannot be sold but loans are still due and bankruptcy may occur, even to the good firms.
So where is Vietnam deflation among the above good and bad scenarios? Our CPI is based heavily on foods and agriculture products. In recent years, the world prices of agriculture products were down because of excess supply, such as the supply of rice, coffee, pepper, etc. Farmers in Indonesia, Brazil, and Vietnam could do nothing but wait for each other to chop down coffee trees. Instead of denouncing each other, they criticize government for failing to support them with proper information and forecasting.
(Đường dẫn tới các bài trước được đăng trong mục Tin bài khác bên dưới)
Chống Lạm Phát Hay Giảm Phát?
TS. Nguyễn Đức Độ
Tại sao lạm phát thấp? Đâu là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này hiện nay, thưa ông?
Có 2 nhóm yếu tố tác động đến chỉ số lạm phát: Nhóm thứ nhất là cầu kéo, nhóm thứ hai là chi phí đẩy.
Theo tính toán của Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm, tỷ giá tăng 2% khiến chỉ số CPI tăng thêm 0,6% và giá điện tăng 8,42% đẩy chỉ số CPI tăng thêm 0,22%. Về giá dầu, mặt bằng giá xăng dầu trên thế giới cũng như trong nước vào thời điểm giữa tháng 6/2015 đã ở mức ngang bằng so với giữa tháng 12/2014. Như vậy, trong nửa đầu năm 2015 các yếu tố chi phí đẩy, về cơ bản, có tác động kéo lạm phát gia tăng. Do đó, tình trạng lạm phát thấp hiện nay chỉ có thể được giải thích bởi nguyên nhân còn lại – động thái của tổng cầu.
Kể từ năm 2008 đến nay, tăng trưởng kinh tế luôn trong tình trạng thấp hơn mức tiềm năng (khoảng 6,5%), tức là tốc độ tăng của tổng cầu luôn yếu hơn tốc độ tăng của tổng cung. Khi tổng cầu luôn tăng chậm hơn tổng cung, chênh lệch tổng cầu – tổng cung liên tục giảm và kéo lạm phát giảm theo.
Liệu có điều gì ẩn sau lạm phát thấp? Với thực trạng giá và lạm phát như thế này, liệu có mừng vui khi giá thấp, chi tiêu của dân chúng dễ chịu hơn và chính sách điều hành rõ ràng đã đạt mục tiêu mong muốn?
Đối với người tiêu dùng, đặc biệt là người nghèo, xu hướng giá cả tăng chậm là một tin vui. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách cần nhìn xa và rộng hơn. Cuộc sống của người dân chỉ thực sự được cải thiện khi họ có việc làm ổn định, thu nhập tăng đều. Nhưng doanh nghiệp chỉ có thể tăng đầu tư và mở rộng kinh doanh, thuê thêm lao động, nếu công việc làm ăn mang lại lợi nhuận. Muốn vậy, một trong những điều kiện cần là chi phí vay vốn phải hợp lý. Nếu không, sớm hay muộn các doanh nghiệp này cũng sẽ thu hẹp quy mô sản xuất. Cả doanh nghiệp và Chính phủ chắc chắn sẽ gặp khó khăn trong việc trả nợ.
Ông dự báo diễn biến lạm phát những tháng tới như thế nào? Dự báo sai số đến đâu?
Mặc dù Quốc hội đặt ra mức lạm phát mục tiêu cho năm 2015 là 5%, nhưng gần đây một số dự báo cho rằng, lạm phát trong năm nay chỉ khoảng 3-3,5%. Tuy nhiên, các dự báo này vẫn cao. Trong 6 tháng đầu năm 2015, lạm phát chỉ tăng trung bình 0,1% mỗi tháng, trong khi để đạt mức tăng 3,5% trong cả năm, mỗi tháng còn lại chỉ số CPI phải tăng 0,5%/tháng. Điều này rất khó trở thành hiện thực nếu không có những đột biến lớn.
Việc kỳ vọng chỉ số giá CPI trong những tháng còn lại của năm tiếp tục tăng 0,1%/tháng, theo tôi, hợp lý hơn. Nếu vậy, lạm phát trong năm 2015 sẽ chỉ xoay quanh mức 1%. Một số mô hình dự báo lạm phát cùng kỳ và lạm phát trung bình của năm 2015 cũng cho kết quả như vậy với sai số chuẩn là 1,5 điểm phần trăm.
Nếu nhìn xa hơn, lạm phát trong giai đoạn tới sẽ phụ thuộc vào tốc độ phục hồi của nền kinh tế cũng như mức điều chỉnh tỷ giá NHNN thực hiện mỗi năm. Nếu nền kinh tế chỉ tăng trưởng 6-6,25%/năm, xác suất rơi vào giảm phát là không nhỏ. Để nền kinh tế tránh xa vùng giảm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế cần đạt mức từ 6,5% trở lên. Nếu kinh tế tăng trưởng tới 7%/năm, tình trạng lạm phát cao vẫn chưa xảy ra.
Kết quả dự báo này cũng phần nào lý giải cho câu hỏi: tại sao Chính phủ lại đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP cho giai đoạn 2016-2020 ở mức 6,5-7%. Tuy nhiên, thách thức ở chỗ: làm thế nào để đạt được mức tăng trưởng này?
Một số kịch bản lạm phát giai đoạn 2016-2018 (%)
Vậy, chính sách tới đây sẽ nên thay đổi theo hướng nào? (lo giảm phát hay lạm phát)
Vì vậy, các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách lãi suất, cần hướng tới việc hỗ trợ tổng cầu.
Hiện nay có một số lo ngại lạm phát cao có thể quay trở lại như giai đoạn 2007-2011 do NHNN mua nhiều USD trong những năm gần đây đã khiến lượng cung tiền tăng mạnh. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, bối cảnh đã thay đổi. Trong giai đoạn 2007-2011, nền kinh tế giống như một cục than hồng, chỉ cần một luồng gió thổi qua là ngọn lửa lại bùng lên. Tuy nhiên, sau nhiều năm tăng trưởng dưới mức tiềm năng, đồng thời xuất hiện thêm vấn đề nợ xấu, trạng thái của nền kinh tế hiện đã nguội đi nhiều.
Cung tiền tăng mạnh chỉ là điều kiện cần để tạo nên lạm phát. Điều kiện đủ là tiền phải đến được túi của người dân và họ phải sẵn sàng chi tiêu. Vì thế, khi tăng trưởng còn yếu hơn tiềm năng, chúng ta không nên quá lo ngại lạm phát cao quay trở lại.
Nhưng cung tiền tăng mạnh có thể ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô thông qua các kênh như vàng, USD…?
Các dòng tiền đầu cơ luôn là một phần của nền kinh tế thị trường và không thể loại bỏ hoàn toàn. Khi cung tiền tăng, các thị trường vàng, USD, bất động sản, chứng khoán sẽ có cơ hội để phát triển và NHNN sẽ phải cố gắng thu hẹp các dòng tiền đầu cơ đến mức tối thiểu để ổn định hệ thống tài chính.
Tuy nhiên, khi chính sách hạn chế các dòng tiền đầu cơ ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu khác như tăng trưởng, việc làm… NHNN sẽ phải lựa chọn. Xét trên một góc độ nào đó, đây là cái giá phải trả của việc nới lỏng tiền tệ.
Trong giai đoạn 2012-2014, NHNN đã rất thành công trong việc hạ lãi suất, giảm lạm phát đồng thời với ổn định tỷ giá và thị trường vàng. Một trong những lý do dẫn đến thành công này là các dòng tiền nóng đã hướng vào thị trường trái phiếu.
Theo số liệu mới được Tổng cục Thống kê công bố, chỉ số giá tiêu dùng CPI trong tháng 6/2015 tăng 0,55% so với tháng 12/2014 và tăng 1% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng thấp nhất trong tháng 6 kể từ năm 2001 đến nay. Tốc độ lạm phát trong vòng 1 năm qua đang có xu hướng giảm mạnh. Nền kinh tế hiện đang ở tương đối gần mức lạm phát 0%, đồng thời lại đang ở rất xa mức lạm phát mục tiêu là 5%.
Lạm Phát Tốt Hay Xấu? Điều Gì Tạo Ra Lạm Phát?
Lạm phát đo lường mức độ đắt hơn của một tập hợp hàng hóa và dịch vụ trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm
Nó có thể là một trong những từ quen thuộc nhất trong kinh tế học. Lạm phát đã đẩy các quốc gia vào thời kỳ bất ổn kéo dài. Các chủ ngân hàng trung ương thường khao khát được gọi là “diều hâu lạm phát”. Các chính trị gia đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử với lời hứa chống lạm phát, chỉ để mất quyền lực sau khi không thực hiện được. Lạm phát thậm chí còn được Tổng thống Gerald Ford tuyên bố là kẻ thù số 1 ở Hoa Kỳ – vào năm 1974. Vậy thì lạm phát là gì, và tại sao nó lại quan trọng như vậy?
Lạm phát Đo lường như thế nào?
Chi phí sinh hoạt của người tiêu dùng phụ thuộc vào giá của nhiều hàng hóa và dịch vụ và tỷ trọng của từng loại trong ngân sách hộ gia đình. Để đo lường chi phí sinh hoạt trung bình của người tiêu dùng, các cơ quan chính phủ tiến hành các cuộc khảo sát hộ gia đình để xác định một giỏ các mặt hàng thường mua và theo dõi chi phí mua giỏ này theo thời gian. (Chi phí nhà ở, bao gồm tiền thuê nhà và tiền thế chấp, là thành phần lớn nhất của giỏ tiêu dùng ở Hoa Kỳ.) Chi phí của giỏ này tại một thời điểm nhất định được biểu thị so với năm gốc là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và tỷ lệ phần trăm sự thay đổi của chỉ số CPI trong một thời kỳ nhất định là lạm phát giá tiêu dùng, thước đo lạm phát được sử dụng rộng rãi nhất. (Ví dụ, nếu CPI năm cơ sở là 100 và CPI hiện tại là 110, thì lạm phát là 10 phần trăm trong thời kỳ này.)
Lạm phát tiêu dùng cốt lõi tập trung vào các xu hướng cơ bản và dai dẳng của lạm phát bằng cách loại trừ giá do chính phủ quy định và giá sản phẩm dễ biến động hơn, chẳng hạn như thực phẩm và năng lượng, bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các yếu tố theo mùa hoặc điều kiện cung cấp tạm thời. Lạm phát cơ bản cũng được các nhà hoạch định chính sách theo dõi chặt chẽ. Việc tính toán tỷ lệ lạm phát tổng thể – chẳng hạn đối với một quốc gia, và không chỉ đối với người tiêu dùng – yêu cầu một chỉ số có phạm vi bao phủ rộng hơn, chẳng hạn như chỉ số giảm phát GDP.
Rổ CPI chủ yếu được giữ cố định theo thời gian để tạo sự nhất quán, nhưng đôi khi được điều chỉnh để phản ánh các mô hình tiêu dùng đang thay đổi – ví dụ, để bao gồm hàng hóa công nghệ cao mới và thay thế các mặt hàng không còn được mua nhiều. Bởi vì nó cho thấy trung bình, giá cả thay đổi như thế nào theo thời gian đối với mọi thứ được sản xuất trong nền kinh tế, nội dung của chỉ số giảm phát GDP thay đổi hàng năm và cập nhật hơn so với rổ CPI chủ yếu cố định. Mặt khác, hệ số giảm phát bao gồm các khoản không tiêu thụ được (chẳng hạn như chi tiêu quân sự) và do đó không phải là thước đo tốt cho chi phí sinh hoạt.
Lạm phát tốt hay là xấu?
Trong phạm vi mà thu nhập danh nghĩa của các hộ gia đình, mà họ nhận được bằng tiền hiện tại, không tăng nhiều như giá cả, thì họ sẽ bị thiệt hơn, vì họ có thể mua ít hơn. Nói cách khác, sức mua hoặc thu nhập thực tế – được điều chỉnh theo lạm phát – của họ giảm. Thu nhập thực tế là một đại diện cho mức sống. Khi thu nhập thực tế tăng lên thì mức sống cũng tăng và ngược lại.
Trên thực tế, giá cả thay đổi theo các bước khác nhau. Một số, chẳng hạn như giá của hàng hóa giao dịch, thay đổi hàng ngày; những khoản khác, chẳng hạn như tiền lương do hợp đồng thiết lập, mất nhiều thời gian hơn để điều chỉnh (hoặc là “cố định”, theo cách nói kinh tế). Trong môi trường lạm phát, giá cả tăng không đồng đều chắc chắn làm giảm sức mua của một số người tiêu dùng, và sự xói mòn thu nhập thực tế này là chi phí lớn nhất của lạm phát.
Lạm phát cũng có thể làm sai lệch sức mua theo thời gian đối với người nhận và người trả lãi suất cố định. Lấy những người hưu trí nhận mức tăng cố định 5% hàng năm vào lương hưu của họ. Nếu lạm phát cao hơn 5 phần trăm, sức mua của người hưu trí sẽ giảm. Mặt khác, một người đi vay trả một khoản thế chấp có lãi suất cố định là 5% sẽ được hưởng lợi từ lạm phát 5%, bởi vì lãi suất thực (tỷ lệ danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát) sẽ bằng 0; giải quyết khoản nợ này thậm chí sẽ dễ dàng hơn nếu lạm phát cao hơn, miễn là thu nhập của người đi vay theo kịp lạm phát. Tất nhiên, thu nhập thực tế của người cho vay bị ảnh hưởng. Trong phạm vi mà lạm phát không được tính vào lãi suất danh nghĩa, một số tăng và một số mất sức mua.
Thật vậy, nhiều quốc gia đã phải vật lộn với lạm phát cao – và trong một số trường hợp là siêu lạm phát, 1.000 phần trăm hoặc hơn một năm. Năm 2008, Zimbabwe đã trải qua một trong những trường hợp siêu lạm phát tồi tệ nhất từ trước đến nay, với mức lạm phát hàng năm ước tính ở mức 500 tỷ phần trăm. Mức độ lạm phát cao như vậy là một thảm họa, và các quốc gia đã phải thực hiện các biện pháp chính sách khó khăn và đau đớn để đưa lạm phát trở lại mức hợp lý, đôi khi bằng cách từ bỏ đồng tiền quốc gia của họ, như Zimbabwe đã làm.
Mặc dù lạm phát cao gây tổn hại cho nền kinh tế, nhưng giảm phát hoặc giá giảm cũng không được mong muốn. Khi giá giảm, người tiêu dùng trì hoãn việc mua hàng nếu họ có thể, dự đoán giá sẽ thấp hơn trong tương lai. Đối với nền kinh tế, điều này có nghĩa là hoạt động kinh tế ít hơn, thu nhập do người sản xuất tạo ra ít hơn và tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Nhật Bản là một quốc gia có một thời gian dài gần như không tăng trưởng kinh tế, phần lớn là do giảm phát. Ngăn chặn giảm phát trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu vào năm 2007 là một trong những lý do khiến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và các ngân hàng trung ương khác trên thế giới giữ lãi suất thấp trong một thời gian dài và đã thiết lập các chính sách tiền tệ khác để đảm bảo hệ thống tài chính có nhiều thanh khoản.
Hầu hết các nhà kinh tế hiện nay tin rằng lạm phát thấp, ổn định và – quan trọng nhất – có thể dự đoán được là tốt cho một nền kinh tế. Nếu lạm phát thấp và có thể dự đoán được, thì việc nắm bắt nó trong các hợp đồng điều chỉnh giá và lãi suất sẽ dễ dàng hơn, giảm tác động xuyên tạc của nó. Hơn nữa, biết rằng giá cả sẽ cao hơn một chút trong tương lai tạo cho người tiêu dùng động cơ mua hàng sớm hơn, điều này thúc đẩy hoạt động kinh tế. Nhiều ngân hàng trung ương đã đưa ra mục tiêu chính sách chính của họ là duy trì lạm phát thấp và ổn định, một chính sách được gọi là lạm phát mục tiêu.
Điều gì dẫn đến sự lạm phát?
Các đợt lạm phát cao kéo dài thường là kết quả của chính sách tiền tệ lỏng lẻo. Nếu cung tiền tăng quá lớn so với quy mô của một nền kinh tế, thì giá trị đơn vị của tiền tệ sẽ giảm đi; nói cách khác, sức mua của nó giảm và giá cả tăng lên. Mối quan hệ giữa cung tiền và quy mô của nền kinh tế được gọi là lý thuyết lượng tiền và là một trong những giả thuyết lâu đời nhất trong kinh tế học.
Áp lực từ phía cung hoặc cầu của nền kinh tế cũng có thể gây lạm phát. Những cú sốc về nguồn cung làm gián đoạn sản xuất, chẳng hạn như thiên tai, hoặc tăng chi phí sản xuất, chẳng hạn như giá dầu cao, có thể làm giảm nguồn cung tổng thể và dẫn đến lạm phát “chi phí đẩy”, trong đó động lực tăng giá xuất phát từ sự gián đoạn nguồn cung. Lạm phát lương thực và nhiên liệu năm 2008 là một trường hợp như vậy đối với nền kinh tế toàn cầu – giá lương thực và nhiên liệu tăng mạnh được truyền từ nước này sang nước khác theo con đường thương mại. Ngược lại, các cú sốc về nhu cầu, chẳng hạn như thị trường chứng khoán phục hồi hoặc các chính sách mở rộng, chẳng hạn như khi ngân hàng trung ương giảm lãi suất hoặc chính phủ tăng chi tiêu, có thể tạm thời thúc đẩy nhu cầu tổng thể và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu sự gia tăng nhu cầu này vượt quá khả năng sản xuất của một nền kinh tế, thì sự căng thẳng về nguồn lực dẫn đến kết quả là phản ánh lạm phát “cầu kéo”. Các nhà hoạch định chính sách phải tìm ra sự cân bằng phù hợp giữa thúc đẩy nhu cầu và tăng trưởng khi cần thiết mà không kích thích quá mức nền kinh tế và gây ra lạm phát.
Kỳ vọng cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định lạm phát. Nếu mọi người hoặc công ty dự đoán mức giá cao hơn, họ xây dựng những kỳ vọng này thành các cuộc đàm phán tiền lương và điều chỉnh giá theo hợp đồng (chẳng hạn như tự động tăng giá thuê). Hành vi này một phần xác định lạm phát của kỳ tiếp theo; một khi các hợp đồng được thực hiện và tiền lương hoặc giá cả tăng lên theo thỏa thuận, kỳ vọng sẽ tự thực hiện. Và trong phạm vi mà mọi người đặt kỳ vọng của họ vào quá khứ gần đây, lạm phát sẽ theo các mô hình tương tự theo thời gian, dẫn đến quán tính lạm phát.
Cách các nhà hoạch định chính sách đối phó với lạm phát
Bộ chính sách khử lạm phát phù hợp, những chính sách nhằm giảm lạm phát, phụ thuộc vào nguyên nhân của lạm phát. Nếu nền kinh tế phát triển quá nóng, các ngân hàng trung ương – nếu họ cam kết đảm bảo ổn định giá cả – có thể thực hiện các chính sách điều chỉnh nhằm kiềm chế tổng cầu, thường bằng cách tăng lãi suất. Một số ngân hàng trung ương đã chọn, với các mức độ thành công khác nhau, áp đặt kỷ luật tiền tệ bằng cách ấn định tỷ giá hối đoái – gắn giá trị của đồng tiền của mình với đồng tiền khác, và do đó chính sách tiền tệ của quốc gia đó với chính sách của quốc gia khác. Tuy nhiên, khi lạm phát được thúc đẩy bởi sự phát triển toàn cầu hơn là trong nước, các chính sách như vậy có thể không giúp ích được gì. Năm 2008, khi lạm phát gia tăng trên toàn cầu do giá thực phẩm và nhiên liệu tăng cao, nhiều quốc gia đã để mức giá cao trên toàn cầu chuyển sang nền kinh tế trong nước. Trong một số trường hợp, chính phủ có thể trực tiếp định giá (như một số trường hợp đã làm vào năm 2008 để ngăn giá thực phẩm và nhiên liệu tăng cao). Các biện pháp ấn định giá hành chính như vậy thường dẫn đến việc chính phủ phải tích lũy các hóa đơn trợ cấp lớn để bù đắp thu nhập bị mất cho người sản xuất.
Các ngân hàng trung ương đang ngày càng dựa vào khả năng tác động đến kỳ vọng lạm phát như một công cụ giảm lạm phát. Các nhà hoạch định chính sách công bố ý định giữ hoạt động kinh tế tạm thời ở mức thấp để giảm lạm phát, hy vọng sẽ tác động đến kỳ vọng và thành phần lạm phát tích hợp trong hợp đồng. Các ngân hàng trung ương càng có uy tín, ảnh hưởng của các tuyên bố của họ đối với kỳ vọng lạm phát càng lớn.
Tại Sao Giảm Phát Lại Tồi Tệ?
Giá cả ở khu vực đồng euro đang hạ xuống. Số liệu công bố ngày 7/1 cho thấy giá tiêu dùng trong năm 2014 tính đến tháng 10 đã tụt 0,2%, đánh dấu sự quay trở lại của giảm phát lần đầu tiên kể từ năm 2009. Mức cầu yếu do chính sách thắt lưng buộc bụng, nợ và sự thiếu hụt tăng trưởng đang kéo mức giá cả xuống. Giá dầu giảm cũng khiến hàng hóa rẻ hơn. Người ta có thể nghĩ rằng giá cả giảm là một điều đáng để ăn mừng, nhưng những lo ngại về bẫy giảm phát và vòng xoáy suy thoái vẫn đang tồn tại khắp nơi. Ngân hàng Trung ương Châu Âu có thể sẽ khởi động chương trình nới lỏng định lượng trong tháng này để ngăn chặn nguy cơ ấy. Vậy tại sao các nhà kinh tế học lại rất sợ việc giá cả giảm?
Một cách giải thích thông thường cho câu hỏi này là với việc dự đoán trước được giá cả giảm, người tiêu dùng trì hoãn mua sắm khiến giá cả lại giảm thêm. Lập luận này là một sự đơn giản hóa; ta có thể đưa ra một lập luận ngược lại có sức nặng tương đương rằng lạm phát tất yếu sẽ tăng bởi người tiêu dùng sẽ mua sắm trước (lúc giá còn rẻ) để tránh việc phải trả giá quá cao về sau.
Tỉ lệ lạm phát thấp hoặc giảm phát kìm nén biến số tối quan trọng này. Lãi suất danh nghĩa không thể xuống dưới mức 0 bởi điều này có nghĩa là số dư tiền gửi ngân hàng của người dân bị giảm mỗi tháng, và khiến họ rút tiền gửi khỏi ngân hàng và cất trữ tiền mặt dưới gầm giường. Cùng với lạm phát, điều này cũng đặt ra một mức sàn đối với lãi suất thực tế. Nếu lạm phát ở mức thấp và lãi suất thực tế không giảm đến mức đủ để kích cầu và khiến giá cả tăng lên, cầu sẽ càng trở nên yếu hơn. Đây chính là bẫy giảm phát khiến người ta sợ hãi.
Bên cạnh đó cũng còn một số vấn đề khác. Tỉ lệ lạm phát thấp hơn dự kiến khiến gánh nặng nợ thực tế tăng lên. Những người cho vay hưởng lợi từ điều này, nhưng bởi vì họ có xu hướng tiết kiệm hơn là người vay nợ, nhìn chung mức cầu vẫn bị yếu đi. Giảm phát còn khiến thị trường lao động trở nên cứng nhắc hơn. Người lao động có thể chống lại việc cắt giảm lương tính bằng tiền mặt, nhưng lạm phát cho phép các công ty cắt giảm tiền lương thực tế bằng cách giữ nguyên tiền lương danh nghĩa. Ngược lại, giảm phát khiến vấn đề này trở nên trầm trọng hơn.
Để tránh bẫy giảm phát, các ngân hàng trung ương có thể viện đến những chính sách phi chính thống (unconventional) như nới lỏng định lượng, mặc dù người ta vẫn còn tranh luận về tính công bằng và tính hiệu quả của chúng. Trong dài hạn, một vài nhà kinh tế học cho rằng các mục tiêu lạm phát nên được đặt cao hơn. Điều này sẽ tạo thêm khoảng trống cho lãi suất thực hạ xuống khi các nền kinh tế chịu những cú sốc tiêu cực. Nhưng trong một vài thập niên tới, vấn đề này có thể sẽ biến mất: trong một nền kinh tế không tiền mặt, người ta không thể cất trữ tiền dưới gầm giường. Điều này sẽ cho phép lãi suất danh nghĩa hạ xuống mức âm, đơn giản bởi số dư tiền gửi ngân hàng của tất cả mọi người có thể bị giảm cùng lúc. Dù vậy điều này nói thì dễ hơn là làm.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Giảm Phát: Tốt Hay Xấu trên website Duandautueb5.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!