Cập nhật nội dung chi tiết về Cùng Khách Quan Nhìn Lại Chế Độ “Việt Nam Cộng Hòa” mới nhất trên website Duandautueb5.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
30/4 là đại thắng vinh quang và đường hoàng của cả dân tộc. Thế nhưng một số người ở hải ngoại vẫn chưa thấu hiểu điều này.
Cứ đến dịp lễ 30/4 hàng năm, người dân Việt Nam lại phấn khởi kỷ niệm chiến thắng chung của toàn dân tộc trước các thế lực ngoại xâm – chiến thắng vĩ đại đã giúp non sông thu về một mối.
Chiến thắng này đã nối tiếp chiến thắng Điện Biên Phủ cũng như các chiến thắng hào hùng khác của cha ông ta thời Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền,…
Tranh cổ động kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam (ảnh: Tapchithethao)
Mặc dầu vậy, một bộ phận nhỏ người gốc Việt sống ở nước ngoài lại hậm hực coi dịp 30/4 là “ngày hận, tháng đen” và tổ chức kỷ niệm sự kiện này theo cách riêng của họ.
Có lẽ do chưa thấm hết lịch sử Việt Nam hoặc bị các thế lực hắc ám nào đó lừa phỉnh nên họ vẫn coi cuộc kháng chiến chống Mỹ như một cuộc nội chiến. Theo họ, cái chính thể mang tên “Việt Nam Cộng hòa” là hoàn toàn hợp pháp và sự sụp đổ của chế độ đó là do sự “cưỡng chiếm” từ miền Bắc.
Trước các luận điệu hoặc ngộ nhận này, chúng ta cần nhìn lại lịch sử và làm một cuộc “giải phẫu” chế độ Việt Nam Cộng hòa cùng hai công cụ bạo lực của nó là Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa để thấy rõ bản chất của nó và những sự thật mười mươi.
Chính quyền bất hợp pháp
Có thể nói, ngay từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một “sáng tạo” thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ (thị trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa…).
Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập một cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật.
Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam.
Không những vậy, sau năm 1954 nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự (với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó!
Theo Hiệp định Geneva, Việt Nam chỉ tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, giới tuyến quân sự chỉ là tạm thời và không phải là biên giới quốc gia. Theo Hiệp định này, hai bên sẽ tiến hành hiệp thương để thống nhất đất nước trong năm 1956.
Tuy nhiên ông Ngô Đình Diệm – do CIA (Mỹ) “tìm thấy” và đưa về Việt Nam làm Thủ tướng của chính phủ bù nhìn Bảo Đại – đã tuyên bố không có tổng tuyển cử gì hết, trắng trợn vi phạm Hiệp định Geneva, và đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc.
Thời đó, người Mỹ và phe cánh của ông Diệm lo sợ uy tín to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Đảng Lao động Việt Nam và tin rằng nếu tiến hành bầu cử tự do, Hồ Chí Minh sẽ giành được tới 80% số phiếu.
Do vậy ông Diệm với sự giúp đỡ của người Mỹ đã phải sử dụng nhiều “mưu hèn kế bẩn” để củng cố quyền lực của mình (với tư cách là Thủ tướng), rồi gian lận trong cuộc “trưng cầu dân ý” để hạ bệ luôn Quốc trưởng Bảo Đại, dựng lên “Việt Nam Cộng hòa” với Diệm làm Quốc trưởng và sau đó là Tổng thống.
Tiếp đó, ông Diệm áp dụng nhiều chiêu thức man rợ để tàn sát những người kháng chiến cũ và những người yêu nước chân chính, khủng bố tinh thần của nhân dân, củng cố chính quyền phản động của mình, công khai phá hoại Hiệp định Geneva, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước.
Cảnh chính quyền “Việt Nam Cộng hòa” xử bắn sinh viên Lê Văn Khuyên ngày 29/1/1965 ngay trên đường phố Sài Gòn (ảnh: Tư liệu)
Sau khi đã củng cố vững chắc chính quyền, Ngô Đình Diệm đã cho tiến hành “cải cách điền địa” với nội dung ngược với “cải cách ruộng đất” (mục tiêu dân cày có ruộng) mà cách mạng đã tiến hành trước đó.
Về bản chất chính trị, “Việt Nam Cộng hòa” đại diện cho các tầng lớp tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ.
Nền tảng trực tiếp cho sự ra đời của Việt Nam Cộng hòa là chính thể “Quốc gia Việt Nam” (1949-1955) – đây là một chế độ bù nhìn do Pháp lập nên trong thời kỳ kháng Pháp và do cựu hoàng Bảo Đại (mất ngôi hoàng đế sau Cách mạng tháng Tám) làm quốc trưởng. Quốc kỳ “ba que” của Việt Nam Cộng hòa cũng chính là quốc kỳ của “Quốc gia Việt Nam” được Pháp “trao trả độc lập”.
Như vậy, ngay từ đầu, chính thể này đã phạm nhiều tội ác và mang “gene” Việt gian rất rõ nét, từ “từng lỗ chân lông” của mình.
Bước chuyển từ “Quốc gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng hòa” là bước chuyển từ làm tay sai cho thực dân Pháp sang làm tay sai cho đế quốc Mỹ.
Theo thời gian, chính thể Việt Nam Cộng hòa ngày càng thối nát với tệ nạn tham nhũng, các cuộc đấu đá nội bộ và các cuộc đảo chính quân sự. Chế độ này không đại diện cho dân tộc và trên thực tế đã bị nhân dân và lịch sử quay lưng lại.
Còn tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rất cao, nên Mỹ không thể lấy cớ để lôi kéo quân của Liên Hợp Quốc vào lãnh thổ Việt Nam tham chiến như đã từng xảy ra trên bán đảo Triều Tiên.
Quân đội, cảnh sát mang gốc gác thực dân
Chính thể Việt Nam Cộng hòa là phi pháp nên các công cụ bạo lực của nó cũng chỉ là lực lượng phản dân hại nước, đang tâm làm tay sai cho các thế lực ngoại bang.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa thường khoe là chiến đấu cho tự do. Tuy nhiên quân đội này lại phát xuất từ chính lực lượng ngụy quân đã sát cánh bên quân đội viễn chinh Pháp dưới lá cờ tam tài! Đa phần các tướng lĩnh cao cấp của quân đội Sài Gòn đều đã từng phục vụ trong quân đội Pháp hoặc quân đội “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại để bảo vệ nền thống trị của người Pháp ở Đông Dương.
Viên tướng tư lệnh Phạm Văn Phú, kẻ đã bại trận thảm hại tại chiến trường Tây Nguyên năm 1975, cũng từng là lính Việt chiến đấu hăng hái bên các chiến hữu Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954. Tại Điện Biên, ông Phạm Văn Phú khi đó si mê hát Quốc ca Pháp, hô hào các binh sĩ ngụy khác đánh trả quân Việt Minh của tướng Võ Nguyên Giáp.
Cái gọi là “Cảnh sát Quốc gia” của chế độ ngụy cũng không hơn. Nó bắt nguồn từ lực lượng cảnh sát và mật thám của Pháp tại Đông Dương từ năm 1946. Tướng Nguyễn Ngọc Loan – Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia ngụy, kẻ đã dùng súng lục bắn thẳng vào đầu một tù binh cộng sản ngay trước ống kính máy ảnh và máy quay phim của phóng viên ngoại quốc trên đường phố Sài Gòn năm 1968 – xuất thân là quân nhân trong quân đội Liên hiệp Pháp.
Người dân Sài Gòn đón chào quân giải phóng tháng 4/1975 (ảnh: Báo chí nước ngoài)
Khu vực Dinh “Độc lập” vào ngày 30/4/1975 (ảnh: Tư liệu)
Đến khi đổi chủ, hai lực lượng này lại hết lòng với các quan thầy Mỹ. Dù người ta có ngụy biện đến thế nào cũng không thể phủ nhận bản chất tay sai của quân đội và cảnh sát ngụy.
Cả quân lực và cảnh lực ngụy đã tham gia vào những chiến dịch “diệt cộng” rất dã man, trên tinh thần “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Thời Diệm, với luật 10/59, máy chém được lê khắp miền Nam để chặt đầu người cộng sản và làm họ lung lạc ý chí.
Trong “cuộc chiến vì tự do”, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sát cánh và tiếp tay cho “ông chủ” của mình là quân viễn chinh Mỹ – những kẻ đã phạm nhiều tội ác phi nhân tính như hãm hiếp phụ nữ Việt Nam, thảm sát dân thường (tiêu biểu có trường hợp Mỹ Lai), sử dụng chất độc da cam, sử dụng bom napalm và các loại bom chùm có sức sát thương tàn bạo…
Với những đòn nhục hình gần như chỉ để triệt hạ các tù binh cộng sản (đóng đinh vào đầu, đục răng, đục xương bánh chè, luộc sôi người, đốt cơ quan sinh dục…), nhà tù Phú Quốc – địa ngục trần gian do quân đội Sài Gòn tạo ra (sau khi học hỏi kinh nghiệm của chuyên gia Mỹ) – là minh chứng hùng hồn cho những vi phạm nhân quyền và những tội ác kiểu trung cổ trời không dung đất không tha của chế độ ngụy.
Quân đội ngụy hoàn toàn được đào tạo theo lối Mỹ, được trang bị cực tốt và đầy đủ, có hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, hoạt động cực kỳ tốn kém theo kiểu Mỹ và bằng ngân sách Mỹ.
Đã vậy, khi tác chiến quân đội Sài Gòn còn nhận được sự cố vấn của chuyên gia quân sự Mỹ và sự hỗ trợ tối đa về hỏa lực và hậu cần từ phía quân đội Mỹ. Nói cách khác, quân đội Sài Gòn là một đội quân đánh thuê cho đế quốc Mỹ và được Mỹ ưu ái đầu tư bài bản.
Tuy nhiên, có một thứ mà chính người Mỹ cũng thừa nhận là họ không thể mang đến cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa được – đó là tinh thần chiến đấu quả cảm và sự mưu trí sáng tạo.
Với bản chất đánh thuê (và cả chết thuê nữa), quân đội Sài Gòn hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ, thiếu lý tưởng, không thể đại diện cho dân tộc Việt Nam và cũng không thể kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc.
Đến khi Mỹ rút viện trợ và ngưng yểm trợ thì quân đội này (cùng với chính thể Việt Nam Cộng hòa) suy sụp nhanh chóng, không còn biết “đánh đấm gì nữa”, chẳng khác nào “bệnh nhân bị rút ống thở”.
Trong đợt tổng công kích của quân giải phóng năm 1972, quân ngụy Sài Gòn trụ vững được phần lớn là nhờ Hoa Kỳ đã yểm hộ tối đa cho họ bằng phi pháo và oanh tạc cơ chiến lược B-52.
Đến năm 1975, khi bị người Mỹ bỏ rơi thì họ đã không thể chống đỡ nổi các đòn tiến công dũng mãnh của quân giải phóng.
Sau khi trúng đòn điểm huyệt ở Buôn Ma Thuột, dù lực lượng vẫn đông và vũ khí còn nhiều (hơn hẳn quân giải phóng) nhưng quân đội ngụy ở Tây Nguyên đã nhanh chóng rã đám do thiếu mưu lược và do sĩ quan của họ chỉ mải lo cho gia đình mình và di tản một cách hỗn loạn, khiến thế trận của ngụy quyền ở toàn bộ Tây Nguyên sụp đổ.
Một số kẻ cố bào chữa cho ngụy quyền Sài Gòn, cho rằng nếu quân đội Sài Gòn đánh thuê cho Mỹ thì quân đội nhân dân Việt Nam hoạt động theo chỉ đạo của Liên Xô.
Vế thứ 2 của luận điệu trên là hoàn toàn không đúng. Vì Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao và kết hợp nhuần nhuyễn hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quân đội Nhân dân Việt Nam trân trọng sự giúp đỡ quý báu của nhân dân các nước XHCN nhưng không bao giờ ỷ lại vào đó.
Trong tác chiến, quân đội nhân dân Việt Nam có tham khảo kinh nghiệm và lý luận quân sự của nước khác nhưng là trên tinh thần độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, xuất phát từ thực tiễn dân tộc và đất nước (trường hợp thay đổi phương châm tác chiến tại Điện Biên Phủ là một ví dụ điển hình).
Và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không để cho quân đội nước bạn nào vào lãnh thổ để tham chiến bên cạnh mình. Trong khi đó, Việt Nam Cộng hòa đã để cho nửa triệu quân Mỹ và nhiều quân chư hầu của Mỹ vào giày xéo đất nước.
Nếu xét về viện trợ thì những gì mà Liên Xô và Trung Quốc cung cấp cho Quân đội Nhân dân tuy lớn nhưng đâu thấm tháp so với khối lượng khổng lồ tiền bạc, vũ khí và quân cụ mà Mỹ đổ vào quân đội Sài Gòn.
Nên nhớ, trong hoàn cảnh thời đó, mức lương của một sĩ quan ngụy rất cao, đủ nuôi sống cả gia đình họ.
Tất nhiên, Quân lực Việt Nam Cộng hòa bao gồm những người con đất Việt máu đỏ da vàng, mang trong mình các nét văn hóa Việt.
Tuy nhiên họ đã không phát huy được sức mạnh của văn hóa và truyền thống tổ tiên, vì họ đã sống trong môi trường tha hóa và thiếu chính danh của Việt Nam Cộng hòa, đã lầm đường lạc lối, đã bị lừa dối, bị ép buộc, hoặc đơn giản là hành động chỉ vì miếng cơm manh áo.
Lòng dân
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lòng dân luôn hướng về Đảng Cộng sản Việt Nam, cả ở miền Bắc lẫn miền Nam.
Trong suốt thời gian tồn tại của mình, dù nhiều lần hô hào Bắc tiến nhưng quân đội Sài Gòn chưa bao giờ có khả năng đưa lục quân ra miền Bắc XHCN, ngược lại họ luôn trong thế phòng ngự.
Nhân dân Sài Gòn vui mừng chào đón các chiến sĩ giải phóng tháng 4/1975 (ảnh: Tư liệu)
Trong thời kỳ 1955-1975, không có một quân đội thứ 2, một chính quyền thứ 2 ở miền Bắc, cũng không có biểu tình và các lực lượng chống đối ở miền Bắc.
Nếu có thì đó chỉ là các toán gián điệp-biệt kích do Mỹ-ngụy tung ra Bắc nhưng các nhóm này đều nhanh chóng bị cơ quan an ninh cách mạng bắt gần như toàn bộ với sự trợ giúp của quần chúng.
Điều duy nhất Mỹ-ngụy có thể làm là đưa máy bay vượt vĩ tuyến 17 ném bom phá hoại miền Bắc XHCN, giết hại dân thường.
Trong khi đó, ở miền Nam dưới ách Mỹ-ngụy, liên tục diễn ra các cuộc biểu tình của dân chúng, của Phật giáo, sinh viên, trí thức, ký giả…, các hoạt động đấu tranh vũ trang rộng khắp của quần chúng phá thế kìm kẹp ở nông thôn (như phong trào đồng khởi ở Bến Tre và toàn Nam bộ).
Nằm ngay cửa ngõ Sài Gòn là khu “đất thép” Củ Chi của các du kích và quân giải phóng miền Nam, tồn tại bao năm như cái gai thách thức chế độ Mỹ-ngụy, những kẻ đã trút xuống đó vô số bom đạn và mở nhiều cuộc càn quét sử dụng các loại vũ khí tối tân nhưng không tài nào khuất phục được ý chí của quân dân Củ Chi.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 đã giáng một đòn mạnh vào Mỹ-ngụy, làm cho Mỹ nhận ra rằng họ không thể thắng ở miền Nam Việt Nam, đồng thời chỉ cho thế giới thấy chính thể Việt Nam Cộng hòa mất lòng dân đến mức nào.
Vì rõ ràng, những người cộng sản không thể tiến hành một cuộc tấn công đồng loạt, rộng khắp và mãnh liệt trong thời gian dài như vậy (trên toàn đô thị miền Nam, trong điều kiện hết sức khó khăn) nếu thiếu sự che chở bao bọc của đông đảo nhân dân.
Như vậy ở phía nam vĩ tuyến 17 đã hình thành 2 vùng kiểm soát với 2 quân đội tương ứng, khiến cho tính hợp pháp và chính danh của chế độ Việt Nam Cộng hòa vốn đã kém lại càng bị thách thức nghiêm trọng.
Nhân dân Sài Gòn vui vẻ chào đón và hỏi han các chiến sĩ giải phóng quân ngày 30/4/1975 (ảnh: Tư liệu nước ngoài)
Thậm chí ngay cả ở những vùng Mỹ-ngụy chiếm giữ, vẫn tồn tại song song hai hệ thống chính quyền, hai lực lượng. Một bên là chế độ ngụy công khai, một bên là các đảng bộ cộng sản cùng các đơn vị công an và bộ đội địa phương hoạt động ngầm tương ứng với các đơn vị hành chính.
Ý Đảng luôn thống nhất với lòng dân, các đảng viên kiên định bám sát quần chúng như cá với nước. Địch phải liên tục đối phó với chiến tranh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân ở khắp nơi.
Ngay giữa Sài Gòn, kẻ địch thường xuyên phải căng thẳng vì những trận đánh xuất quỷ nhập thần của biệt động Sài Gòn (thuộc quân đội nhân dân) và lực lượng an ninh T4 (thuộc công an nhân dân).
Hệ thống cảnh sát ngụy dù dày đặc và rất hung hãn nhưng không thể cản ngăn phong trào đấu tranh của quần chúng, không thể bắt hết cán bộ cách mạng được nhân dân bảo vệ.
Ngược lại, chính lực lượng tình báo cách mạng đã xâm nhập hết sức hiệu quả vào bộ máy an ninh tình báo ngụy và hệ thống chính quyền ngụy, kể cả ở cấp cao nhất.
Trước giờ cáo chung, ngụy quyền còn tuyên truyền quân giải phóng sẽ dìm Sài Gòn trong biển máu. Nhưng cuối cùng thì không có cuộc tắm máu nào như thế cả.
Ngược lại, những người hạ vũ khí về với nhân dân đã nhận được sự khoan hồng của cách mạng. Các hình ảnh do chính phóng viên ảnh và quay phim nước ngoài ghi lại đã cho thấy quần chúng hồ hởi đón chào quân giải phóng đến nhường nào trong trưa 30/4/1975 tại Sài Gòn.
Như vậy, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng cuộc Chiến tranh Việt Nam 1955-1975 không phải là nội chiến mà là cuộc kháng chiến chính nghĩa do toàn dân tiến hành chống lại ngoại xâm và tay sai của ngoại bang./.
Theo Trung Hiếu/VOV.VN
Cùng Khách Quan Nhìn Lại Chế Độ
30/4 là đại thắng vinh quang và đường hoàng của cả dân tộc. Thế nhưng một số người ở hải ngoại vẫn chưa thấu hiểu điều này.
Cứ đến dịp lễ 30/4 hàng năm, người dân Việt Nam lại phấn khởi kỷ niệm chiến thắng chung của toàn dân tộc trước các thế lực ngoại xâm – chiến thắng vĩ đại đã giúp non sông thu về một mối.
Chiến thắng này đã nối tiếp chiến thắng Điện Biên Phủ cũng như các chiến thắng hào hùng khác của cha ông ta thời Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền,…
Mặc dầu vậy, một bộ phận nhỏ người gốc Việt sống ở nước ngoài lại hậm hực coi dịp 30/4 là “ngày hận, tháng đen” và tổ chức kỷ niệm sự kiện này theo cách riêng của họ.
Có lẽ do chưa thấm hết lịch sử Việt Nam hoặc bị các thế lực hắc ám nào đó lừa phỉnh nên họ vẫn coi cuộc kháng chiến chống Mỹ như một cuộc nội chiến. Theo họ, cái chính thể mang tên “Việt Nam Cộng hòa” là hoàn toàn hợp pháp và sự sụp đổ của chế độ đó là do sự “cưỡng chiếm” từ miền Bắc.
Trước các luận điệu hoặc ngộ nhận này, chúng ta cần nhìn lại lịch sử và làm một cuộc “giải phẫu” chế độ Việt Nam Cộng hòa cùng hai công cụ bạo lực của nó là Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa để thấy rõ bản chất của nó và những sự thật mười mươi.
Chính quyền bất hợp pháp
Có thể nói, ngay từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một “sáng tạo” thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ (thị trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa…).
Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập một cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật.
Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam.
Không những vậy, sau năm 1954 nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự (với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó!
Theo Hiệp định Geneva, Việt Nam chỉ tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, giới tuyến quân sự chỉ là tạm thời và không phải là biên giới quốc gia. Theo Hiệp định này, hai bên sẽ tiến hành hiệp thương để thống nhất đất nước trong năm 1956.
Tuy nhiên ông Ngô Đình Diệm – do CIA (Mỹ) “tìm thấy” và đưa về Việt Nam làm Thủ tướng của chính phủ bù nhìn Bảo Đại – đã tuyên bố không có tổng tuyển cử gì hết, trắng trợn vi phạm Hiệp định Geneva, và đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc.
Thời đó, người Mỹ và phe cánh của ông Diệm lo sợ uy tín to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Đảng Lao động Việt Nam và tin rằng nếu tiến hành bầu cử tự do, Hồ Chí Minh sẽ giành được tới 80% số phiếu.
Do vậy ông Diệm với sự giúp đỡ của người Mỹ đã phải sử dụng nhiều “mưu hèn kế bẩn” để củng cố quyền lực của mình (với tư cách là Thủ tướng), rồi gian lận trong cuộc “trưng cầu dân ý” để hạ bệ luôn Quốc trưởng Bảo Đại, dựng lên “Việt Nam Cộng hòa” với Diệm làm Quốc trưởng và sau đó là Tổng thống.
Tiếp đó, ông Diệm áp dụng nhiều chiêu thức man rợ để tàn sát những người kháng chiến cũ và những người yêu nước chân chính, khủng bố tinh thần của nhân dân, củng cố chính quyền phản động của mình, công khai phá hoại Hiệp định Geneva, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước.
Sau khi đã củng cố vững chắc chính quyền, Ngô Đình Diệm đã cho tiến hành “cải cách điền địa” với nội dung ngược với “cải cách ruộng đất” (mục tiêu dân cày có ruộng) mà cách mạng đã tiến hành trước đó.
Về bản chất chính trị, “Việt Nam Cộng hòa” đại diện cho các tầng lớp tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ.
Nền tảng trực tiếp cho sự ra đời của Việt Nam Cộng hòa là chính thể “Quốc gia Việt Nam” (1949-1955) – đây là một chế độ bù nhìn do Pháp lập nên trong thời kỳ kháng Pháp và do cựu hoàng Bảo Đại (mất ngôi hoàng đế sau Cách mạng tháng Tám) làm quốc trưởng. Quốc kỳ “ba que” của Việt Nam Cộng hòa cũng chính là quốc kỳ của “Quốc gia Việt Nam” được Pháp “trao trả độc lập”.
Như vậy, ngay từ đầu, chính thể này đã phạm nhiều tội ác và mang “gene” Việt gian rất rõ nét, từ “từng lỗ chân lông” của mình.
Bước chuyển từ “Quốc gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng hòa” là bước chuyển từ làm tay sai cho thực dân Pháp sang làm tay sai cho đế quốc Mỹ.
Theo thời gian, chính thể Việt Nam Cộng hòa ngày càng thối nát với tệ nạn tham nhũng, các cuộc đấu đá nội bộ và các cuộc đảo chính quân sự. Chế độ này không đại diện cho dân tộc và trên thực tế đã bị nhân dân và lịch sử quay lưng lại.
Còn tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rất cao, nên Mỹ không thể lấy cớ để lôi kéo quân của Liên Hợp Quốc vào lãnh thổ Việt Nam tham chiến như đã từng xảy ra trên bán đảo Triều Tiên.
Quân đội, cảnh sát mang gốc gác thực dân
Chính thể Việt Nam Cộng hòa là phi pháp nên các công cụ bạo lực của nó cũng chỉ là lực lượng phản dân hại nước, đang tâm làm tay sai cho các thế lực ngoại bang.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa thường khoe là chiến đấu cho tự do. Tuy nhiên quân đội này lại phát xuất từ chính lực lượng ngụy quân đã sát cánh bên quân đội viễn chinh Pháp dưới lá cờ tam tài! Đa phần các tướng lĩnh cao cấp của quân đội Sài Gòn đều đã từng phục vụ trong quân đội Pháp hoặc quân đội “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại để bảo vệ nền thống trị của người Pháp ở Đông Dương.
Viên tướng tư lệnh Phạm Văn Phú, kẻ đã bại trận thảm hại tại chiến trường Tây Nguyên năm 1975, cũng từng là lính Việt chiến đấu hăng hái bên các chiến hữu Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954. Tại Điện Biên, ông Phạm Văn Phú khi đó si mê hát Quốc ca Pháp, hô hào các binh sĩ ngụy khác đánh trả quân Việt Minh của tướng Võ Nguyên Giáp.
Cái gọi là “Cảnh sát Quốc gia” của chế độ ngụy cũng không hơn. Nó bắt nguồn từ lực lượng cảnh sát và mật thám của Pháp tại Đông Dương từ năm 1946. Tướng Nguyễn Ngọc Loan – Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia ngụy, kẻ đã dùng súng lục bắn thẳng vào đầu một tù binh cộng sản ngay trước ống kính máy ảnh và máy quay phim của phóng viên ngoại quốc trên đường phố Sài Gòn năm 1968 – xuất thân là quân nhân trong quân đội Liên hiệp Pháp.
Đến khi đổi chủ, hai lực lượng này lại hết lòng với các quan thầy Mỹ. Dù người ta có ngụy biện đến thế nào cũng không thể phủ nhận bản chất tay sai của quân đội và cảnh sát ngụy.
Cả quân lực và cảnh lực ngụy đã tham gia vào những chiến dịch “diệt cộng” rất dã man, trên tinh thần “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Thời Diệm, với luật 10/59, máy chém được lê khắp miền Nam để chặt đầu người cộng sản và làm họ lung lạc ý chí.
Trong “cuộc chiến vì tự do”, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sát cánh và tiếp tay cho “ông chủ” của mình là quân viễn chinh Mỹ – những kẻ đã phạm nhiều tội ác phi nhân tính như hãm hiếp phụ nữ Việt Nam, thảm sát dân thường (tiêu biểu có trường hợp Mỹ Lai), sử dụng chất độc da cam, sử dụng bom napalm và các loại bom chùm có sức sát thương tàn bạo…
Với những đòn nhục hình gần như chỉ để triệt hạ các tù binh cộng sản (đóng đinh vào đầu, đục răng, đục xương bánh chè, luộc sôi người, đốt cơ quan sinh dục…), nhà tù Phú Quốc – địa ngục trần gian do quân đội Sài Gòn tạo ra (sau khi học hỏi kinh nghiệm của chuyên gia Mỹ) – là minh chứng hùng hồn cho những vi phạm nhân quyền và những tội ác kiểu trung cổ trời không dung đất không tha của chế độ ngụy.
Quân đội ngụy hoàn toàn được đào tạo theo lối Mỹ, được trang bị cực tốt và đầy đủ, có hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, hoạt động cực kỳ tốn kém theo kiểu Mỹ và bằng ngân sách Mỹ.
Đã vậy, khi tác chiến quân đội Sài Gòn còn nhận được sự cố vấn của chuyên gia quân sự Mỹ và sự hỗ trợ tối đa về hỏa lực và hậu cần từ phía quân đội Mỹ. Nói cách khác, quân đội Sài Gòn là một đội quân đánh thuê cho đế quốc Mỹ và được Mỹ ưu ái đầu tư bài bản.
Tuy nhiên, có một thứ mà chính người Mỹ cũng thừa nhận là họ không thể mang đến cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa được – đó là tinh thần chiến đấu quả cảm và sự mưu trí sáng tạo.
Với bản chất đánh thuê (và cả chết thuê nữa), quân đội Sài Gòn hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ, thiếu lý tưởng, không thể đại diện cho dân tộc Việt Nam và cũng không thể kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc.
Đến khi Mỹ rút viện trợ và ngưng yểm trợ thì quân đội này (cùng với chính thể Việt Nam Cộng hòa) suy sụp nhanh chóng, không còn biết “đánh đấm gì nữa”, chẳng khác nào “bệnh nhân bị rút ống thở”.
Trong đợt tổng công kích của quân giải phóng năm 1972, quân ngụy Sài Gòn trụ vững được phần lớn là nhờ Hoa Kỳ đã yểm hộ tối đa cho họ bằng phi pháo và oanh tạc cơ chiến lược B-52.
Đến năm 1975, khi bị người Mỹ bỏ rơi thì họ đã không thể chống đỡ nổi các đòn tiến công dũng mãnh của quân giải phóng.
Sau khi trúng đòn điểm huyệt ở Buôn Ma Thuột, dù lực lượng vẫn đông và vũ khí còn nhiều (hơn hẳn quân giải phóng) nhưng quân đội ngụy ở Tây Nguyên đã nhanh chóng rã đám do thiếu mưu lược và do sĩ quan của họ chỉ mải lo cho gia đình mình và di tản một cách hỗn loạn, khiến thế trận của ngụy quyền ở toàn bộ Tây Nguyên sụp đổ.
Một số kẻ cố bào chữa cho ngụy quyền Sài Gòn, cho rằng nếu quân đội Sài Gòn đánh thuê cho Mỹ thì quân đội nhân dân Việt Nam hoạt động theo chỉ đạo của Liên Xô.
Vế thứ 2 của luận điệu trên là hoàn toàn không đúng. Vì Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao và kết hợp nhuần nhuyễn hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quân đội Nhân dân Việt Nam trân trọng sự giúp đỡ quý báu của nhân dân các nước XHCN nhưng không bao giờ ỷ lại vào đó.
Trong tác chiến, quân đội nhân dân Việt Nam có tham khảo kinh nghiệm và lý luận quân sự của nước khác nhưng là trên tinh thần độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, xuất phát từ thực tiễn dân tộc và đất nước (trường hợp thay đổi phương châm tác chiến tại Điện Biên Phủ là một ví dụ điển hình).
Và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không để cho quân đội nước bạn nào vào lãnh thổ để tham chiến bên cạnh mình. Trong khi đó, Việt Nam Cộng hòa đã để cho nửa triệu quân Mỹ và nhiều quân chư hầu của Mỹ vào giày xéo đất nước.
Nếu xét về viện trợ thì những gì mà Liên Xô và Trung Quốc cung cấp cho Quân đội Nhân dân tuy lớn nhưng đâu thấm tháp so với khối lượng khổng lồ tiền bạc, vũ khí và quân cụ mà Mỹ đổ vào quân đội Sài Gòn.
Nên nhớ, trong hoàn cảnh thời đó, mức lương của một sĩ quan ngụy rất cao, đủ nuôi sống cả gia đình họ.
Tất nhiên, Quân lực Việt Nam Cộng hòa bao gồm những người con đất Việt máu đỏ da vàng, mang trong mình các nét văn hóa Việt.
Tuy nhiên họ đã không phát huy được sức mạnh của văn hóa và truyền thống tổ tiên, vì họ đã sống trong môi trường tha hóa và thiếu chính danh của Việt Nam Cộng hòa, đã lầm đường lạc lối, đã bị lừa dối, bị ép buộc, hoặc đơn giản là hành động chỉ vì miếng cơm manh áo.
Lòng dân
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lòng dân luôn hướng về Đảng Cộng sản Việt Nam, cả ở miền Bắc lẫn miền Nam.
Trong suốt thời gian tồn tại của mình, dù nhiều lần hô hào Bắc tiến nhưng quân đội Sài Gòn chưa bao giờ có khả năng đưa lục quân ra miền Bắc XHCN, ngược lại họ luôn trong thế phòng ngự.
Trong thời kỳ 1955-1975, không có một quân đội thứ 2, một chính quyền thứ 2 ở miền Bắc, cũng không có biểu tình và các lực lượng chống đối ở miền Bắc.
Nếu có thì đó chỉ là các toán gián điệp-biệt kích do Mỹ-ngụy tung ra Bắc nhưng các nhóm này đều nhanh chóng bị cơ quan an ninh cách mạng bắt gần như toàn bộ với sự trợ giúp của quần chúng.
Điều duy nhất Mỹ-ngụy có thể làm là đưa máy bay vượt vĩ tuyến 17 ném bom phá hoại miền Bắc XHCN, giết hại dân thường.
Trong khi đó, ở miền Nam dưới ách Mỹ-ngụy, liên tục diễn ra các cuộc biểu tình của dân chúng, của Phật giáo, sinh viên, trí thức, ký giả…, các hoạt động đấu tranh vũ trang rộng khắp của quần chúng phá thế kìm kẹp ở nông thôn (như phong trào đồng khởi ở Bến Tre và toàn Nam bộ).
Nằm ngay cửa ngõ Sài Gòn là khu “đất thép” Củ Chi của các du kích và quân giải phóng miền Nam, tồn tại bao năm như cái gai thách thức chế độ Mỹ-ngụy, những kẻ đã trút xuống đó vô số bom đạn và mở nhiều cuộc càn quét sử dụng các loại vũ khí tối tân nhưng không tài nào khuất phục được ý chí của quân dân Củ Chi.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 đã giáng một đòn mạnh vào Mỹ-ngụy, làm cho Mỹ nhận ra rằng họ không thể thắng ở miền Nam Việt Nam, đồng thời chỉ cho thế giới thấy chính thể Việt Nam Cộng hòa mất lòng dân đến mức nào.
Vì rõ ràng, những người cộng sản không thể tiến hành một cuộc tấn công đồng loạt, rộng khắp và mãnh liệt trong thời gian dài như vậy (trên toàn đô thị miền Nam, trong điều kiện hết sức khó khăn) nếu thiếu sự che chở bao bọc của đông đảo nhân dân.
Như vậy ở phía nam vĩ tuyến 17 đã hình thành 2 vùng kiểm soát với 2 quân đội tương ứng, khiến cho tính hợp pháp và chính danh của chế độ Việt Nam Cộng hòa vốn đã kém lại càng bị thách thức nghiêm trọng.
Thậm chí ngay cả ở những vùng Mỹ-ngụy chiếm giữ, vẫn tồn tại song song hai hệ thống chính quyền, hai lực lượng. Một bên là chế độ ngụy công khai, một bên là các đảng bộ cộng sản cùng các đơn vị công an và bộ đội địa phương hoạt động ngầm tương ứng với các đơn vị hành chính.
Ý Đảng luôn thống nhất với lòng dân, các đảng viên kiên định bám sát quần chúng như cá với nước. Địch phải liên tục đối phó với chiến tranh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân ở khắp nơi.
Ngay giữa Sài Gòn, kẻ địch thường xuyên phải căng thẳng vì những trận đánh xuất quỷ nhập thần của biệt động Sài Gòn (thuộc quân đội nhân dân) và lực lượng an ninh T4 (thuộc công an nhân dân).
Hệ thống cảnh sát ngụy dù dày đặc và rất hung hãn nhưng không thể cản ngăn phong trào đấu tranh của quần chúng, không thể bắt hết cán bộ cách mạng được nhân dân bảo vệ.
Ngược lại, chính lực lượng tình báo cách mạng đã xâm nhập hết sức hiệu quả vào bộ máy an ninh tình báo ngụy và hệ thống chính quyền ngụy, kể cả ở cấp cao nhất.
Trước giờ cáo chung, ngụy quyền còn tuyên truyền quân giải phóng sẽ dìm Sài Gòn trong biển máu. Nhưng cuối cùng thì không có cuộc tắm máu nào như thế cả.
Ngược lại, những người hạ vũ khí về với nhân dân đã nhận được sự khoan hồng của cách mạng. Các hình ảnh do chính phóng viên ảnh và quay phim nước ngoài ghi lại đã cho thấy quần chúng hồ hởi đón chào quân giải phóng đến nhường nào trong trưa 30/4/1975 tại Sài Gòn.
Như vậy, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng cuộc Chiến tranh Việt Nam 1955-1975 không phải là nội chiến mà là cuộc kháng chiến chính nghĩa do toàn dân tiến hành chống lại ngoại xâm và tay sai của ngoại bang./.
Theo Trung Hiếu/VOV.VN
Chế Độ Ăn Keto Và Bệnh Gút
Có vẻ như chế độ ăn keto đang dần trở nên phổ biến trong ngành công nghiệp y tế chính thống. Đương nhiên, bạn có thể tò mò về chế độ ăn kiêng này là gì và vai trò của nó đối với người bị bệnh gút. Đây là tất cả mọi thứ bạn cần biết về chế độ ăn keto và bệnh gút.
Chế độ ăn keto là chế độ ăn ít carb, protein vừa phải và chất béo cao ban đầu được thiết kế để điều trị bệnh động kinh ở trẻ em. Người ta tin rằng keto cho phép bạn đốt cháy chất béo thay vì carbohydrate, sau đó dẫn cơ thể vào trạng thái ketosis. Điều này đã được tìm thấy để giảm tỷ lệ co giật động kinh ở trẻ em.
Và trong thời gian gần dây, chế độ ăn uống này không chỉ có vậy. Những người theo chế độ ăn keto khen ngợi nó vì lợi ích sức khỏe của nó, hiệu quả của nó bao gồm là giảm cân, kiểm soát sự thèm ăn, hạ đường huyết, năng lượng tốt hơn và tinh thần minh mẫn.
Có nhiều lợi ích tiềm năng hơn, nhưng chúng vẫn chưa được nghiên cứu sâu. Tuy nhiên, có những người khác hoài nghi về chế độ ăn keto vì tính chất hạn chế của nó. Những người khác ví nó như chế độ ăn kiêng Atkins theo nghĩa đó chỉ là một xu hướng vượt qua sẽ không tồn tại lâu.
Vì vậy, một chế độ ăn keto điển hình trông như thế nào?
Chế độ ăn keto tiêu chuẩn chỉ nên có 5% carbs, 20% protein và 75% chất béo.
Chất béo có thể đến từ thịt mỡ, trứng và cá có dầu. Protein có thể đến từ trứng và cá có dầu. Carbs là một câu chuyện khác. Và rau, trái cây được khuyến khích, nhưng bạn phải coi chừng những loại carb cao; bao gồm chuối, khoai tây, đậu Hà Lan.
Thực hiện chế độ ăn kiêng này thay đổi cách cơ thể bạn chuyển đổi thức ăn thành năng lượng. Khi bạn ăn carbs, cơ thể bạn chuyển đổi thành glucose. Nhưng vì cơ thể không nhận đủ glucose từ chế độ ăn keto, nên nó sử dụng chất béo làm nhiên liệu thay thế. Vì vậy, về cơ bản, bạn đang đốt cháy chất béo để lấy năng lượng thay vì carbohydrate.
Có và không. Hiện tại, có bằng chứng mâu thuẫn về chế độ ăn keto và bệnh gút. Một số người nói rằng nó có thể tốt cho bệnh gút, trong khi những người khác nghĩ rằng đó là điều không nên.
Có một nghiên cứu tại Đại học Yale chỉ ra rằng ketosis giúp ảnh hưởng đến một tình trạng viêm nhiễm cụ thể góp phần gây ra bệnh gút. Nó cũng cho thấy chế độ ăn uống giúp giảm viêm ở khớp.
Ngoài ra, keto có thể giúp giảm cân. Với bệnh gút, việc duy trì cân nặng khỏe mạnh là vô cùng quan trọng. Những người thừa cân có xu hướng có nồng độ axit uric cao hơn trong cơ thể.
Những bệnh nhân đã thử chế độ ăn keto có nguy cơ mắc bệnh gút trong sáu tuần đầu. Việc thiếu carbs ăn kiêng buộc cơ thể tăng phân hủy protein để lấy năng lượng. Tuy nhiên, một khi cơ thể bắt đầu thích nghi với trạng thái ketosis, nguy cơ mắc bệnh gút sẽ giảm và các tác động vẫn ở mức trung tính và đôi khi còn tích cực.
Một tác dụng phụ khác của keto là cơ thể thèm ăn ít đường. Ít thèm đồ ngọt có nghĩa là ít nguy cơ bạn gặp phải cơn gút, vì đường là một loại thực phẩm có hàm lượng purin cao được biết đến.
Tuy nhiên, để keto có lợi cho bệnh gút, cần có sự nhất quán. Nếu bạn áp dụng chế độ ăn keto thường xuyên, bạn sẽ gặp phải sự thay đổi mạnh mẽ trong axit uric, điều này có thể dẫn đến một cuộc tấn công bệnh gút.
Mặt khác, có những người chống lại keto vì chế độ ăn uống bao gồm các loại thực phẩm có hàm lượng purine cao như thịt đỏ và hải sản. Khi tiêu thụ, chúng phân hủy thành axit uric có thể tích tụ và dẫn đến một cuộc tấn công bệnh gút.
Đã có sự gia tăng báo cáo về sỏi thận ở những người chuyển sang chế độ ăn keto. Kết hợp ăn nhiều thịt với lượng chất lỏng không đủ và bạn có cho mình một công thức hoàn hảo cho sỏi thận!
Chế độ ăn keto cũng có thể bị hạn chế, có nghĩa là, bạn sẽ có một chút khó khăn trong việc tìm kiếm sự thay thế cho thực phẩm bạn đã quen ăn. Cuối cùng, bạn có thể không ăn đúng lượng chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, để đáp ứng các chế độ ăn kiêng.
Nó đã đủ khó để bạn phải từ bỏ đường và rượu trong chế độ ăn kiêng gút thông thường. Thậm chí còn khó hơn nếu bạn phải hạn chế một số loại trái cây và rau quả; chỉ có ý chí mạnh mẽ thành công.
Chắc chắn không có gì sai khi không đủ kỷ luật. Nhưng trong thế giới phát triển nhanh ngày nay, điều cuối cùng bạn muốn lo lắng là một đầu bông cải xanh có bao nhiêu carb và liệu bạn có thể có nó hay không.
Cuộc sống quá ngắn ngủi. Tốt hơn là nên tuân thủ quy tắc đơn giản là ăn ngũ cốc nguyên hạt, carbohydrate phức tạp, và protein và chất béo vừa phải.
Nếu bạn có tiền sử gia đình mắc bệnh gút, là nam giới và thừa cân, bất kể bạn có tuân theo chế độ ăn keto hay không, rất có thể bạn sẽ phát triển bệnh gút sau này trong cuộc sống.
Rất may, có những biện pháp phòng ngừa bạn có thể thực hiện như duy trì cân nặng khỏe mạnh và ăn chế độ ăn toàn thực phẩm lành mạnh.
Nghiên cứu mở rộng vẫn chưa được thực hiện về tác dụng của chế độ ăn keto đối với bệnh gút, vì vậy tốt nhất bạn nên tuân thủ chế độ ăn ít purine. Nó đã được thử và kiểm tra và sẽ không khiến bạn có nguy cơ bị bệnh gút nhiều hơn.
Không có chế độ ăn giàu protein động vật có thể tốt cho bạn. Chắc chắn, với chế độ ăn keto, bạn sẽ giảm cân trên đường đi vì cơ thể bạn cơ bản biến thành một cỗ máy đốt mỡ!
Đối với những người vẫn quan tâm đến chế độ ăn keto, tốt nhất bạn nên nói chuyện với bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng trước. Họ có thể cung cấp cho bạn các khuyến nghị và thay thế phù hợp, vì vậy bạn giữ nguyên chế độ ăn keto và đồng thời không thỏa hiệp nhu cầu của bạn để hạn chế các sản phẩm có độ tinh khiết cao.
Bạn có thể thực hiện nghiên cứu của riêng bạn với bác sĩ dinh dưỡng của bạn và cho chúng tôi biết suy nghĩ của bạn về chế độ ăn keto và ảnh hưởng của nó đối với bệnh gút.
Thịt Đỏ Tốt Hay Xấu? Sau Đây Là Một Cái Nhìn Khách Quan
Thịt đỏ là một trong những thực phẩm gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử dinh dưỡng.
Mặc dù con người chúng ta đã và đang ăn thịt đỏ trong suốt quá trình tiến hóa, nhiều người vẫn cho rằng nó có thể gây hại.
Vì thế, tôi muốn phân loại những lời thổi phồng vớ vẩn và tìm ra bằng chứng thực tế.
Bài viết này cũng sẽ tập trung vào những ảnh hưởng của thịt đỏ đối với sức khoẻ. Tôi sẽ để lại những vấn đề đạo đức và môi trường cho người khác giải quyết.
Thịt ngày nay không phải như thịt ngày xưa
Con người đã ăn thịt suốt quá trình tiến hóa và hệ tiêu hóa của chúng ta được trang bị tốt để tiêu hóa nó.
Các dân tộc sống theo kiểu truyền thống như người Inuit và Masai đã ăn rất nhiều thịt, nhiều hơn lượng trung bình mà người phương Tây ăn, nhưng vẫn có sức khoẻ tuyệt vời ( 1, 2).
Tuy nhiên, thịt chúng ta ăn hôm nay rất khác với thịt mà tổ tiên của chúng ta đã ăn. Ngày xưa, động vật được lang thang tự do và ăn cỏ, côn trùng hoặc bất cứ thứ gì trong tự nhiên mà chúng ăn được.
Hình ảnh một con bò rừng hoang dã trên một cánh đồng 10.000 năm trước, di chuyển tựdo, nhai cỏ và các loại thực vật ăn được khác.
Thịt của con vật này hoàn toàn khác với thịt có nguồn gốc từ một con bò sinh ra, lớn lên trong một nhà máy và được cho ăn thức ăn có hạt. Nó cũng có thể đã được tiêm hoóc-môn kích thích tăng trưởng và kháng sinh.
Ngày nay, một số sản phẩm thịt của chúng ta thậm chí phải trải qua nhiều quá trình chế biến hơn sau khi giết mổ; chúng được hun khói, sau đó được xử lý bằng nitrat, chất bảo quản và các hóa chất khác nhau.
Vì vậy, việc phân biệt giữa các loại thịt khác nhau rất quan trọng:
Thịt chế biến: Các sản phẩm này thường là từ các con bò nuôi theo kiểu thông dụng, sau đó trải qua các phương pháp chế biến khác nhau. Ví dụ bao gồm xúc xích và thịt xông khói.
Thịt đỏ thông thường: Thịt đỏ thông thường chưa được xử lý, nhưng bò thường được nuôi tại nhà máy. Thịt sống có màu đỏ được xác định là thịt “đỏ”. Chúng bao gồm thịt cừu, thịt bò, thịt lợn và một số loại thịt khác.
Thịt trắng: Thịt trắng khi nấu chín được định nghĩa là thịt “trắng”. Bao gồm thịt từ gia cầm như gà và gà tây.
Thịt từ động vật ăn 100% cỏ, thịt hữu cơ: Thịt này có nguồn gốc từ động vật được nuôi dưỡng tự nhiên, không có chất kích thích và hoóc-môn. Cũng không có bất kỳ hoá chất nhân tạo thêm vào.
Khi kiểm tra tác động lên sức khoẻ của thịt, điều quan trọng là phải nhận ra rằng không phải tất cả các loại thịt đều được tạo ra như nhau.
Các nghiên cứu về thịt, đặc biệt là những nghiên cứu thực hiện ở Hoa Kỳ, chủ yếu kiểm tra thịt từ động vật nuôi ở nhà máy đã được cho ăn thức ăn có hạt.
Điểm then chốt: Việc phân biệt các loại thịt khác nhau khá là quan trọng. Ví dụ, thịt từ động vật ăn 100% cỏ và thịt hữu cơ rất khác với thịt được chế biến tại nhà máy, hoặc đã qua chế biến.
Thịt đỏ là một trong những thực phẩm bổ dưỡng nhất chúng ta có thể ăn.
Nó có chứa vitamin, khoáng chất, chất chống oxy hoá và các chất dinh dưỡng khác nhau có thể có tác động nhiều đến sức khoẻ.
Một phần 100 gram (3,5 ounce) của thịt bò thô (10% chất béo) chứa ( 3):
Vitamin B3 (Niacin): 25% RDA.
Vitamin B12 (Cobalamin): 37% RDA (vitamin này không thể có được từ thức ăn thực vật).
Vitamin B6 (Pyridoxine): 18% RDA.
Sắt: 12% RDA (Đây là loại sắt heme chất lượng cao, được hấp thụ tốt hơn sắt từ thực vật).
Kẽm: 32% RDA.
Selen: 24% RDA.
Bên cạnh đó, có rất nhiều vitamin và khoáng chất khác trong loại thịt này, nhưng với hàm lượng nhỏ hơn.
Loại thịt này có chứa 176 calo, với 20 gram protein động vật và 10 gram chất béo.
Thịt đỏ cũng giàu các chất dinh dưỡng quan trọng như Creatine và Carnosine. Người không ăn thịt thường thiếu các chất dinh dưỡng này, có thể có những ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều khía cạnh của sức khoẻ, bao gồm chức năng cơ và não ( 4, 5, 6).
Thịt bò ăn cỏ thậm chí có nhiều chất dinh dưỡng hơn là ăn ngũ cốc, nó chứa rất nhiều chất béo omega-3 có lợi cho tim mạch, acid béo CLA, cùng với nhiều vitamin A và E ( 7, 8, 9).
Điểm then chốt: Thịt đỏ rất bổ dưỡng, đặc biệt nếu nó có nguồn gốc từ động vật được nuôi lớn và cho ăn thức ăn tự nhiên. Đây là một nguồn lớn các protein, sắt, B12, kẽm, Creatine và các chất dinh dưỡng khác nhau.
Bệnh tim mạch, tiểu đường và tử vong
Tuy nhiên, nếu xem xét các nghiên cứu lớn hơn với chất lượng cao hơn, chúng cho thấy rằng ảnh hưởng của thịt đỏ giảm đi.
Trong nghiên cứu EPIC, một nghiên cứu quan sát rất lớn bao gồm 448.568 cá thể, thịt chế biến làm tăng nguy cơ tử vong trong trong khi với thịt đỏ chưa qua chế biến thì không có ảnh hưởng gì ( 12).
Khi có nguy cơ tăng tỉ lệ mắc bệnh tim mạch, tiểu đường và tử vong thì cần phải phân biệt giữa thịt đã qua chế biến và chưa qua chế biến vì hai loại có thể có những tác động rất khác nhau.
Nhưng ngay cả như vậy, quan trọng là hãy ghi nhớ những hạn chế của những nghiên cứu này. Kết luận rút ra từ các nghiên cứu quan sát có xu hướng sai lệch. Cách duy nhất để thiết lập nguyên nhân và ảnh hưởng là thực hiện các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên.
Thịt đỏ có tăng nguy cơ ung thư không?
Loại ung thư chính mà thịt đỏ là nguyên nhân gây ra là ung thư kết tràng, căn bệnh ung thư đại trực tràng được biết đến nhiều thứ ba trên thế giới.
Một vấn đề thường gặp trong những nghiên cứu này là chúng dường như đào sâu vào nghiên cứu thịt chế biến cùng với thịt đỏ chưa qua chế biến, mà điều này là không thể chấp nhận.
Các phân tích meta mà các nhà nghiên cứu phân tích dữ liệu từ nhiều nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư đại trực tràng là rất thấp. Một phân tích meta cho thấy ảnh hưởng yếu ở nam giới, nhưng không ảnh hưởng gì đối với phụ nữ ( 16, 17).
Các nghiên cứu khác cho thấy rằng có thể không phải là bản thân thịt đang góp phần làm tăng các nguy cơ gây bệnh, mà là các hợp chất gây hại hình thành khi thịt được nấu ( 18).
Vì vậy, phương pháp nấu ăn có thể là một yếu tố quyết định chính về tác động sức khoẻ của thịt.
Điểm then chốt: Một số nghiên cứu quan sát cho thấy những người ăn thịt đỏ có nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn, nhưng những nghiên cứu lớn hơn có nhiều bằng chứng cho thấy rằng ảnh hưởng này là rất yếu và không nhất quán.
Có sự tương quan không có nghĩa là có quan hệ nhân quả
Xem xét kỹ thì hầu như tất cả những nghiên cứu chứng minh rằng thịt đỏ gây hại đều được gọi là các nghiên cứu quan sát.
Chúng có thể cho ta biết rằng những người ăn nhiều thịt đỏ có nhiều khả năng bị bệnh, nhưng họ KHÔNG THỂ chứng minh rằng thịt đỏ gây ra bất cứ tác động nào.
Một trong những vấn đề chính với các nghiên cứu như vậy là họ đang bị cản trở bởi các yếu tố gây nhiễu khác nhau.
Ví dụ, những người ăn thịt đỏ (và mọi người đều “biết” rằng thịt đỏ là xấu, phải không?) ít có ý thức hơn về sức khoẻ và có nhiều khả năng hút thuốc, uống rượu quá mức, hay ăn nhiều đường hơn, tập thể dục ít hơn, v.v
Những người có ý thức về sức khoẻ hành xử rất khác biệt so với những người không có và không thể điều chỉnh được tất cả các yếu tố này.
Một vấn đề khác với những nghiên cứu này là họ thường dựa vào các bảng câu hỏi về tần suất thực phẩm, làm mọi người sẽ phải nhớ những gì họ đã ăn trong quá khứ.
Sẽ chẳng hay ho gì nếu đưa ra quyết định về sức khoẻ dựa trên các nghiên cứu quan sát. Có nhiều trường hợp trong lịch sử, những thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên kết thúc cho thấy hiệu quả ngược lại chính xác.
Ví dụ, chương trình nghiên cứu the Nurses’ Health Study đã cho thấy rằng liệu pháp thay thế estrogen giúp giảm bệnh tim ở phụ nữ. Sau đó, một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên phát hiện ra rằng nó thực sự làm tăng bệnh tim ( 19).
Điểm then chốt: Các nghiên cứu quan sát không thể được sử dụng để xác định nguyên nhân và ảnh hưởng. Có rất nhiều yếu tố gây nhiễu trong các nghiên cứu như vậy và các nghiên cứu chất lượng cao hơn cuối cùng thường cho thấy hiệu quả ngược lại chính xác.
Xem xét một số thí nghiệm đối chứng ngẫu nhiên
Các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên là tiêu chuẩn vàng của khoa học.
Trong những nghiên cứu này, người ta được phân ngẫu nhiên thành các nhóm. Ví dụ: một nhóm ăn Chế độ ăn uống A, trong khi nhóm khác ăn Chế độ ăn uống B.
Sau đó, các nhà nghiên cứu theo dõi mọi người và xem chế độ ăn uống có nhiều khả năng dẫn đến một kết quả cụ thể.
Thật không may, tôi không biết bất kỳ nghiên cứu nào kiểm tra thịt đỏ một cách trực tiếp theo kiểu như vậy hết.
Tuy nhiên, chúng tôi đã nghiên cứu chế độ ăn kiêng có hàm lượng chất béo thấp. Các nghiên cứu này có mục tiêu chính là giảm chất béo no, có nghĩa là số người trong nghiên cứu phải ăn ít thịt đỏ và thịt chế biến, loại thịt có chất béo bão hòa cao.
Sáng kiến sức khỏe Phụ nữ (Women’s Health Initiative) là một nghiên cứu trên hơn 46 nghìn phụ nữ. Một nhóm được hướng dẫn để ăn một chế độ ăn ít chất béo, trong khi nhóm khác tiếp tục ăn theo chế độ ăn theo tiêu chuẩn của phương Tây.
Sau khoảng thời gian 7,5 năm, hầu như không có sự khác biệt (chỉ 0,4 kg/1 lb) giữa các nhóm. Cũng không có sự khác biệt về tỷ lệ bệnh tim và ung thư ( 20, 21, 22, 23).
Cũng có một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên so sánh chế độ ăn Atkins (thịt đỏ cao) với chế độ ăn Ornish (chế độ ăn chay chất béo thấp không có thịt đỏ). Nó được gọi là nghiên cứu giảm cân từ A đến Z ( 24).
Sau một năm nghiên cứu, nhóm Atkins đã giảm nhiều cân và có những cải thiện lớn hơn trong tất cả các yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của bệnh, mặc dù các hiệu ứng này không phải lúc nào cũng có ý nghĩa thống kê.
Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu khác so sánh chế độ ăn ít carb (thịt đỏ nhiều) và chế độ ăn ít chất béo (ít thịt đỏ). Trong những nghiên cứu này, khẩu phần ít carb dẫn đến kết quả sức khoẻ tốt hơn ( 25, 26, 27).
Tất nhiên, những nghiên cứu này không trực tiếp kiểm tra thịt đỏ, có rất nhiều thứ đang xảy ra có thể ảnh hưởng đến kết quả.
Điểm then chốt: Nghiên cứu chế độ ăn ít chất béo (ít thịt đỏ) không cho thấy dấu hiệu giảm ung thư. Các nghiên cứu về chế độ ăn kiêng low-carb (nhiều thịt đỏ) hầu như không thay đổi dẫn đến việc cải thiện kết quả sức khoẻ.
Khi thịt được nấu ở nhiệt độ cao, nó có thể hình thành các hợp chất có hại.
Một số hợp chất trong số này bao gồm Ameter Heterocyclic (HAs), Hydrocacbon thơm đa vòng (PAHs) và các sản phẩm cao cấp cuối cùng (AGCs).
Những chất này có thể gây ung thư ở động vật.
Nhưng điều này không chỉ đúng với thịt, thực phẩm khác cũng có thể hình thành các hợp chất có hại khi bị đun nóng quá mức.
Sử dụng các phương pháp nấu nướng nhẹ nhàng như hầm và hấp thay vì nướng và chiên.
Giảm nấu ăn ở nhiệt độ cao và không bao giờ để thịt tiếp xúc với ngọn lửa.
Không ăn thức ăn đã cháy và/hoặc hun khói. Nếu thịt bị cháy, hãy cắt bỏ đi những phần đó.
Nếu ướp thịt trong tỏi, rượu vang đỏ, nước chanh hoặc dầu ô liu, nó có thể làm giảm độc tố HCAs (heterocyclic amine) đáng kể.
Nếu bạn phải nấu ở nhiệt độ cao, lật thịt thường xuyên để tránh bị cháy.
Phải công nhận rằng thịt chiên nướng có vị rất tuyệt vời. Cá nhân tôi thích hương vị và kết cấu của thịt đã nấu chín.
Nhưng nếu bạn muốn thưởng thức thịt và nhận được đầy đủ lợi ích mà không có bất kỳ hậu quả có thể có hại nào, hãy sử dụng các phương pháp nấu ăn nhẹ nhàng hơn và tránh thịt bị cháy.
Điểm then chốt: Để ngăn ngừa sự hình thành các chất độc hại khi bạn nấu thịt, hãy chọn phương pháp nấu nướng nhẹ và tránh đốt cháy thịt.
Khi nhìn lại các chiến lược đáng sợ và các tiêu đề giật gân, dễ nhận ra rằng không có thử nghiệm có kiểm soát nào liên kết thịt đỏ với bệnh ở người hết.
Chỉ có những nghiên cứu quan sát được tiến hành, và những nghiên cứu này thường không tách riêng thịt đỏ và thịt chế biến.
Nghiên cứu cũng dựa vào bảng câu hỏi tần suất thực phẩm và không thể giải thích các yếu tố gây nhiễu phức tạp như ý thức về sức khoẻ.
Các nghiên cứu quan sát được thực hiện để tạo ra giả thuyết chứ KHÔNG PHẢI để kiểm tra chúng.
Họ không thể chứng minh rằng thịt đỏ gây ra bất cứ điều gì và cá nhân tôi thấy nó không chắc chắn vì con người đã ăn động vật hoang dã trong suốt quá trình tiến hóa.
Chỉ khi nào bạn chọn thịt đỏ chưa qua chế biến (tốt nhất là ăn cỏ) và đảm bảo sử dụng các phương pháp nấu nhẹ nhàng hơn và tránh những miếng bị cháy/khét, thì có lẽ không có gì phải lo lắng.
Trên thực tế, tôi nghĩ rằng thịt heo nấu chưa qua chế biến thực sự rất lành mạnh.
Nó rất bổ dưỡng và chứa đầy các protein, chất béo lành mạnh, vitamin và khoáng chất cùng với các chất dinh dưỡng khác nhau có tác động tích cực đến chức năng của cả cơ thể và não.
Thêm vào đó thịt đã qua nấu chín có vị rất ngon. Sống mà được ăn thịt thì chắc chắn là ăn đứt việc không ăn chúng rồi.
Những Lưu Ý Về Chế Độ Ăn Giảm Cân Keto
Vì sao nhiều người “kết” keto? Chế độ ăn kiêng keto là một trong những phương pháp giảm cân đi theo nguyên tắc hạn chế tối đa nhóm chất bột đường (carbohydrate), tiêu thụ một lượng chất đạm (protein) vừa phải và nạp vào cơ thể rất nhiều chất béo (lipid). Cụ thể, tỷ lệ thành phần dinh dưỡng của keto bao gồm dưới 10% carbohydrate, 20% protein, còn lại hơn 70% là chất béo. Do vậy, bạn chỉ cần loại bỏ gần hết tinh bột trong thực đơn hằng ngày, còn lại có thể ăn thả ga nhiều món khoái khẩu nhưng cơ thể lại giảm cân nhanh chóng. Cách ăn này làm cạn kiệt nguồn glucose của cơ thể, buộc nó phải đốt cháy chất béo và tạo nguồn năng lượng thay thế được gọi là ketones.
Các nhóm thực phẩm được khuyến khích trong chế độ ăn giảm cân keto bao gồm thịt, đặc biệt là thịt mỡ, các loại cá cũng ưu tiên những loài cá nhiều mỡ như cá hồi, cá ba sa, cá hú, trứng, các loại dầu như dầu dừa, dầu đậu phộng, dầu ô-liu, các loại bơ, phô mai, các loại rau như súp lơ, bông cải xanh, bắp cải. Bạn có thể làm món sa-lát nhưng hãy trộn thật nhiều dầu oliu vào để tăng hàm lượng chất béo.
Trong chế độ ăn keto, bạn có thể ăn một số loại trái ít ngọt, trong đó, ưu tiên nhất là trái bơ. Nên hạn chế ăn các loại hạt, chỉ có thể ăn một số hạt như hạt mắc-ca và hạt hồ đào. Đồ uống nên uống nước lọc, có thể uống cà phê và trà (không đường), rượu thì thỉnh thoảng nhưng không khuyến khích.
Các thực phẩm dành cho những ai ăn kiêng trường phái keto
Chế độ ăn giảm cân keto nên tránh các thực phẩm gồm nhóm tinh bột, như các thức ăn làm từ gạo, bột mì, khoai lang, yến mạch, các loại đậu, các thức ăn và đồ uống có đường và giàu năng lượng như nước ngọt, kẹo, bánh, chocolate, các loại trái cây có vị ngọt, đặc biệt là chuối, không dùng đường trong việc chế biến thức ăn và pha chế đồ uống. Mặc dù chế độ ăn keto khuyến khích sử dụng phô mai và bơ nhưng lại không được “đụng đến” sữa và sữa chua. Bia cũng là đồ uống không nằm trong thực đơn của ăn kiêng keto.
Như vậy, phương pháp giảm cân keto có một số điểm tương đồng với chế độ ăn low carb khi cả hai đều cắt giảm nhóm thực phẩm giàu tinh bột (carbohydrate). Tuy nhiên, ở keto, việc giảm carb trở nên khắt khe hơn khi bạn chỉ được nạp vào cơ thể dưới 50 gram /ngày, trong khi ở low carb lượng tinh bột có thể dao động từ 50 gram đến 150 gram/ ngày. Thêm vào đó, ở low carb bạn có thể tiêu thụ một lượng protein nhiều hơn, trong khi ở keto thì tỉ lệ protein chỉ chiếm khoảng 20% của khẩu phần ăn, tất cả để dồn cho việc tiêu thụ càng nhiều chất béo càng tốt.
Tinh bột, ngũ cốc là các thực phẩm mà người ăn kiêng keto nên tránh
Giảm cân keto – Thế mạnh và hạn chế
Keto được chứng minh là có những hiệu quả rõ rệt trong việc giảm cân trong một thời gian ngắn. Ngoài cơ chế đốt cháy mỡ thì chế độ ăn keto với việc tăng hàm lượng chất béo trong khẩu phần sẽ làm giảm cảm giác thèm ăn, giúp đẩy nhanh tốc độ giảm cân hơn nữa. Đây cũng là lý do vì sao ngày càng có nhiều người đi theo trường phái ăn kiêng này để đạt được số cân nặng như mong muốn. Thêm vào đó, keto cũng được kiểm chứng là giúp hỗ trợ trong việc chữa trị chứng động kinh.
Tuy nhiên, nếu chọn phương pháp giảm cân keto để giảm cân, bạn cũng nên lưu ý một chút đến sức khỏe của hệ tiêu hóa và sức khỏe gan mật. Do việc tập trung nhiều các thực phẩm giàu chất béo, dầu mỡ, chế độ ăn keto nhưng với tỉ lệ khẩu phần ăn không hợp lý có thể gây nên chứng táo bón, tình trạng cơ thể mệt mỏi, . Với những ai yêu thích một chế độ ăn cân bằng, nhiều rau củ trái cây thì keto có thể là một thách thức để duy trì trong một thời gian dài.
Việc cơ thể tiêu thụ rất nhiều chất béo cũng sẽ làm tăng lượng mỡ vào gan, rất dễ khiến gan quá tải, đồng thời cũng làm tăng nguy cơ gan nhiễm mỡ. “Chế độ ăn keto, trong đó nhấn mạnh việc tiêu thụ nhiều chất béo và hạn chế carbohydrate có thể dẫn đến bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD)”, theo Hugo Rosen, một chuyên gia về bệnh gan và chủ tịch y học tại Keck school of Medicine of USC, Hoa Kỳ cho biết.
Do vậy, để việc thực hiện chế độ ăn giảm cân keto phát huy tối đa hiệu quả và không gây những tác hại đối với sức khỏe, bạn nên cân nhắc sử dụng một số sản phẩm hỗ trợ giúp lá gan hoạt động tốt và khỏe mạnh hơn dù chế độ ăn có chứa rất nhiều chất béo.
Người ăn kiêng keto có thể bổ sung sản phẩm tốt cho gan
Theo các bác sĩ dinh dưỡng tại Trung tâm Nutrihome, ăn uống theo chế độ keto tuy giải quyết được việc giảm bớt năng lượng đưa vào cơ thể, có thể giảm cân nhanh chóng tuy nhiên đây là cách giảm cân không bền vững và có thể gây hại cho sức khỏe. Chế độ ăn với quá nhiều chất béo và hạn chế tối đa tinh bột làm ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển hóa, làm giảm đi năng lượng hoạt động của não bộ, ngoài ra còn khiến cơ thể gặp các vấn đề như táo bón, tiêu chảy…
Để giảm cân an toàn và hiệu quả, tốt nhất bạn nên tìm hiểu nguyên nhân gây nên tình trạng thừa cân để có biện pháp giảm cân hiệu quả. Mỗi người đều có nhu cầu dinh dưỡng khác nhau nên để giảm cân an toàn, bạn cần có một chế độ ăn uống và vận động phù hợp. Tại Trung tâm Dinh dưỡng – Y học Vận động Nutrihome, quy trình khám, tư vấn và điều trị dinh dưỡng cho người béo phì, người muốn giảm cân đều được xây dựng khoa học, từ khâu thăm khám, chẩn đoán cho đến khâu xây dựng thực đơn cá thể hóa, hướng dẫn chế biến món ăn khoa học, đầy đủ dinh dưỡng để bạn nhanh chóng lấy lại được vóc dáng mà vẫn đảm bảo được sức khỏe.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Cùng Khách Quan Nhìn Lại Chế Độ “Việt Nam Cộng Hòa” trên website Duandautueb5.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!